Sự ảnh hưởng của Civil law đến Việt Nam
Tải bản đầy đủ - 0trang
Kể từ khi hình thành Civil law đã phát triển và ảnh hưởng ra
ngoài châu Âu với sự xâm chiếm mở rộng thuộc địa của các
nước tư bản phương tây. Do nhiều quốc gia Tây Âu như Pháp, Bỉ,
Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Italia có nhiều thược địa ở
các châu lục khác nên dòng họ pháp luật Civil law đã có điều
kiện thuận lợi để phát triển sang các châu lục khác. Ở các nươc
Đơng Dương nói chung và ở Việt Nam nói riêng chịu ảnh hưởng
của Civil law chủ yếu thông qua hệ thống pháp luật của nước
Pháp vì Việt Nam từng là thuộc địa của Pháp.
Pháp luật Pháp đã có những ảnh hưởng với quá trình xây
dựng và thực hiện pháp luật ở Việt Nam như sau:
Thứ nhất, ảnh hưởng của văn hoá pháp luật Pháp vào hoạt
động lập hiến ở Việt Nam. Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX,
do ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản Pháp, đặc biệt là Bản
Tuyên ngôn Dân quyền và công dân quyền của nước Pháp 1789,
Hiến pháp 1791 và các bản Hiến pháp tiếp theo của Pháp, giới
trí thức Việt Nam đã tranh luận sôi nổi về việc xây dựng một
bản Hiến pháp cho Việt Nam. Sau khi Cách mạng Tháng 8 thành
công, mơ ước của người dân Việt Nam về một bản Hiến pháp
cho người dân Việt Nam đã có điều kiện biến thành hiện thực.
Chỉ sau một thời gian ngắn sau khi thành lập nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà, dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bản
Hiến pháp 1946 đã được xây dựng. Đây là bản Hiến pháp kết
tinh được những tinh hoa của hiến pháp tư sản, đặc biệt là các
bản Hiến pháp đầu tiên của nước Cộng hoà Pháp.
Thứ hai, ảnh hưởng của pháp luật Pháp với việc xây dựng và
thực hiện các bộ luật dân sự ở Việt Nam. Trong thời thực dân
Pháp đô hộ, dưới sự ảnh hưởng của Bộ luật Dân sự Napoleon
1804, một số Bộ luật Dân sự Việt Nam đã được ban hành như:
Bộ luật Dân sự giản yếu của Nam Kỳ được ban hành năm 1884;
Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ được ban hành năm 1931; Bộ luật Dân sự
Trung Kỳ được ban hành năm 1936. Sau Cách mạng Tháng 8
năm 1945, trong điều kiện chưa xây dựng được các Bộ luật mới,
Sắc lệnh ngày 10/10/1945 đã cho phép áp dụng các luật lệ của
chế độ cũ, trừ những điều khoản trái với nền độc lập tự do của
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Ngay cả đến sau này, khi đất nước đã hoàn toàn dành được
độc lập và trên con đường đổi mới phát triển thì pháp luật dân
sự của Việt Nam vẫn tiếp thu những giái trị tinh túy của pháp
luật châu Âu lục địa nói chung và của nước Pháp nói riêng. Tiêu
biểu đó là Bộ luật Dân sự 2005 được xây dựng trên tinh thần hội
nhập quốc tế, tiếp thu nhiều tư tưởng pháp luật lục địa châu Âu
(Pháp, Đức) nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hoá truyền thống
của đời sống dân sự Việt Nam.
Thứ ba, ảnh hưởng của hệ thống tổ chức toà án Pháp đối với
Việt Nam. Trước khi người Pháp đặt ách đơ hộ, hệ thống tồ án ở
Việt Nam được xây dựng theo mơ hình tồ án phong kiến, ở đó
khơng có sự tách biệt giữa cơ quan hành chính và cơ quan tư
pháp, các quan cai trị đầu hạt đồng thời là các quan xét xử.
Khi thực dân Pháp đặt ách đơ hộ lên Việt Nam, bên cạnh các
tồ án của người Việt xây dựng theo mơ hình tồ án phong kiến
để xét xử người Việt, người Pháp đã thành lập thêm hệ thống
tồ án Pháp xây dựng theo mơ hình tồ án tư sản để xét xử
cơng dân Pháp và cơng dân nước ngồi kể cả người Việt đã
nhập quốc tịch Pháp. Các toà án Pháp được xây dựng trong thời
kỳ này hoàn toàn là những toà án theo mơ hình tồ án hiện đại.
Đó là đảm bảo ngun tắc tư pháp tách khỏi hành chính thành
một ngành độc lập, khơng một quan cai trị hành chính nào đồng
thời có thể là thẩm phán. Các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử
được tách biệt và độc lập với nhau. Ngun tắc mọi cơng dân
bình đẳng trước pháp luật được thiết lập, quyền được bào chữa
của các bị cáo được đảm bảo. Nhờ hệ thống toà án này du nhập
vào Việt Nam, mơ hình tồ án tư sản đã có ảnh nhất định đến tư
duy tố tụng và cách thức tổ chức hệ thống toà án cho người Việt
Nam. Và một hệ thống toà án như vậy đã nhanh chóng được
thiết lập sau cách mạng tháng 8/1945 khi Việt Nam đã giành
được độc lập.
Thứ tư, ảnh hưởng của các cơ quan đại diện dân chúng
trong thời Pháp thuộc đến ý tưởng tổ chức Quốc hội và Hội đồng
nhân dân các cấp sau khi Việt Nam giành được độc lập. Trong
thời kỳ người Pháp đô hộ Việt Nam, một hệ thống cơ quan đại
diện dân chúng được thành lập như: “Hội đồng quản hạt Nam
Kỳ”; “Uỷ ban tư vấn kỳ hào Bắc Kỳ”; “Viện tư vấn bản xứ Bắc
Kỳ”. Ngoài các cơ quan đại diện cho dân chúng ở cấp Kỳ còn có
cơ quan đại diện cho dân chúng ở cấp tỉnh và thành phố như:
“Hội đồng quận” ở Nam Kỳ; “Uỷ ban tư vấn bản xứ hành tỉnh” ở
Bắc kỳ; “Hội đồng hàng tỉnh” ở Trung Kỳ. Bên cạnh đó các cơ
quan đại diện dân chúng cũng được thành lập tại các thành phố
Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng.
Các cơ quan đại diện dân chúng trong thời kỳ Pháp thuộc
phần lớn chỉ mang tính chất hình thức vì chỉ có tầng lớp kỳ hào
mới được tham gia bầu cử và ứng cử vào các cơ quan đại diện.
Vai trò của các cơ quan đại diện lúc này rất hạn chế vì chỉ có
thẩm quyền tư vấn. Các kiến nghị của các cơ quan đại diện chỉ
được thực hiện khi được sự đồng ý của đại diện Chính phủ bảo
hộ.
Mặc dù Thiết chế cơ quan đại diện dân chúng do pháp xây
dựng còn nhiều hạn chế, nhưng nó cũng đã có ảnh hưởng nhất
định đến tư duy tổ chức bộ máy nhà nước hiện đại theo hướng
càng ngày càng dân chủ hơn ở Việt Nam. Sau Cách mạng tháng
8 năm 1945, nước nhà đã giành được độc lập, những kinh
nghiệm dù rất hạn chế của các cơ quan đại diện dân chúng
trong thời Pháp thuộc đã giúp cho người dân Việt Nam tổ chức
Quốc hội và Hội đồng nhân dân là hệ thống cơ quan dân cử thực
sự dân chủ của mình.
2. Một số điểm tương đồng giữa hệ thống pháp luật Việt
Nam với hệ thống pháp luật thuộc dòng họ Civil Law
Dưới sự ảnh hưởng của pháp luật Pháp - một đại diện điển
hình của dòng họ pháp luật Civil Law trong thời kì thuộc địa
cũng như quá trình tiếp thu những giá trị tinh hoa của pháp luật
Pháp nói riêng cũng như những quan điểm tiến bộ, như những
sự phù hợp của Civil Law nói riêng trong quá trình xây dựng và
hồn thiện pháp luật của Việt nam từ khi dành độc lập đến nay,
vì vậy mà hệ thống pháp luật Việt nam có một số điểm tương
đồng với hệ thống pháp luật thuộc dòng họ Civil Law. Một số
điểm tương đồng đó là:
Thứ nhất, cũng giống như các hệ thống pháp luật thuộc
dòng họ Civil Law, hệ thống pháp luật Việt nam cũng coi trọng
lý luận pháp luật. Các bộ luật ở Việt Nam thường đi từ cái chung
đến cái riêng. Phần chung làm cơ sở cho phần riêng và được
xây dựng theo tư duy logic từ cái khái quát đến cái cụ thể, từ cái
chung đến cái riêng, từ cái trừu tượng đến cái hữu hình, từ
nguyên tắc chung đến các tình huống cụ thể , từ lý luận đến
thực tiễn. Điều này chúng ta có thể thấy rõ trong Bộ luật hình sự
Và Bộ luật dân sự của Việt Nam. Ngày nay khi Việt Nam đang
xây dựng nhà nước theo con đường Xã hội chủ nghĩa lấy chủ
nghĩa Mác – Lê nin là nền tảng tư tưởng thì vấn đề coi trọng lý
luận trong mọi vấn đề luôn được đề cao, ngay cả trong lĩnh vực
xây dựng pháp luật cũng vậy.
Thứ hai, hệ thống pháp luật của việt nam cũng có trình độ
hệ thống hóa, pháp điển hóa cao. Điều này được thể hiện ở việc
chúng ta đã xây dựng được nhiều bộ luật khác nhau cũng như
ban hành nhiều luật,…nhờ việc ban hành nhiều Bộ luật, luật với
các quy phạm pháp luật cụ thể, rõ ràng đã làm cho việc áp
dụng pháp luật trở nên dễ ràng hơn. Có thể áp dụng trực tiếp cá
quy phạm pháp luật trong các Bộ luật cũng như Luật vào điều
chỉnh các quan hệ xã hội mà không cần phải thông qua văn bản
pháp luật trung gian như nghị định hoặc thông tư hướng dẫn thi
hành. Tuy nhiên thì trình độ pháp điển hóa ở Việt Nam vẫn còn
chưa thực sự đạt được nhiều thành tựu, nhiều quy định của
pháp luật vẫ chưa thực sự rõ ràng dẫn đến tình trạng còn phải
ban hành nhiều văn bản để hướng dẫn thi hành.
Thứ ba, sự tương đồng về nguồn của hệ thống pháp luật.
Cũng như các hệ thống pháp luật thuộc dòng họ Civil Law,
nguồn quan trọng nhất của hệ thống pháp luật Việt Nam cũng
là nguồn pháp luật thành văn. Các nguồn khác như tập quán
pháp, tiền
lệ pháp chỉ là những
nguồn bổ sung cho nguồn
pháp luật thành văn. Mặc dù hiện nay chúng ta đã thừa nhận án
lệ và đã công bố một số bản án lệ nhưng án lệ của Việt Nam