- Bón phân cho cây cà phê:
Tải bản đầy đủ - 0trang
+ Bón lần cuối vào thời điểm cuối năm cần kết hợp phân chuồng và phân lân
bón ln 1 lần để tiết kiệm nhân công.
+ Ở vườn cà phê mới trồng thì sau khi trồng 1 – 2 tháng nên bón thúc phân
urê và kali mỗi loại có liều lượng là 25 – 30 kg/1 hố.
Áp dụng biện pháp chống hạn hán, chống rét cho cây cà phê.
Ngay sau khi trồng cà phê con và cây che bóng lúc này cây che bóng còn nhỏ
chưa phát huy được khả năng che bóng cần làm túp che cho cây để tránh nắng và
sương muối.
Làm túp che thì làm kín hướng đơng bắc và hở hướng tây năm ¼ túp cao
cách đỉnh 10 - 15 cm vững chắc.
- Tạo hình tỉa cành: Là cơng đoạn chăm sóc cây cà phê hết sức quan trọng
giúp cây có được bộ tán cân đối cho năng suất cao ổn định về sau. Cây có bộ tán
cân đối thì việc chăm sóc cũng như thu hoạch cũng thuận tiện hơn, sự tấn công của
sâu bệnh cũng hạn chế đáng kể.
+ Tạo hình cơ bản: Là hình thức tạo hình đơn giản mỗi cây để 1 thân chính
khơng cho mọc nhiều thân trên hố, đánh tỉa các chồi vượt và các nát khi chúng xuất
hiện trên thân chính.
+ Tạo hình ni trái: Những cây cà phê mọc sát đất tầm 20 - 25 cm cần loại
bỏ chúng ngay để tạo độ thơng thống và thuận lợi cho vườn cây, những cành sinh
trưởng kém cần tỉa đi để cây thơng thống và chất dinh dưỡng ni những cành
khỏe mạnh khác. Cành tăm nhỏ, những cành khô, cành bị sâu bệnh, chồi vượt cũng
cần loại bỏ đi. Những cành già cho trái nhiều đợt cần cắt ngắn chúng lại để phát
sinh cành mới từ cành già này.
Nhưng người dân ở đây chủ yếu canh tác cà phê theo kinh nghiệm từ xa xưa
chứ không áp dụng theo đúng kỹ thuật chăm sóc. Do đó, năng suất cà phê còn chưa
cao. Được thuận lợi là nguồn lao động dồi dào, không lo thiếu. Tạo công ăn việc
làm cho đồng bào.
3.1.3. Hiện trạng sử dụng đất canh tác
Như chúng ta cũng đã biết diện tích nước ta chiếm ¾ diện tích là đồi núi. Đất
22
đai được coi là tài nguyên cơ bản của vùng, thuận lợi cho phát triển nông lâm
nghiệp. Diện tích đất chủ yếu là đất đỏ bazan, tầng phong hố dày, địa hình lượn
sóng nhẹ tạo thành các cao nguyên đất đỏ như cao nguyên Buôn Ma Thuột, Plâyku,
Đăk Nơng, Kon Tum chiếm diện tích khoảng 1 triệu ha, thích hợp với nhiều loại cây
trồng, đặc biệt là cây cao su, cà phê, chè, hồ tiêu, điều... và rừng.
Tuy nhiên diện tích đất trống đồi núi trọc chiếm tới 1,4 triệu ha và đang bị
thoái hoá nghiêm trọng (đất bazan thối hố tới 71,7%; diện tích đất bị thoái hoá
nặng chiếm tới 20%). Ngày nay, hệ canh tác của người Tây Nguyên chịu ảnh hưởng
rất lớn của những thay đổi về mơi trường văn hóa – xã hội, mơi trường vật lý và
mơi trường chính sách, thể chế. Những thay đổi căn bản đó là:
- Trong mơi trường văn hóa – xã hội: các biến động xã hội kéo theo các thay
đổi trong tổ chức cộng đồng, sự gia tăng dân số, đặc biệt là di cư của các tộc người
khác vào trong vùng tạo nên sức ép lớn.
- Trong môi trường vật lý: việc mở mang các doanh nghiệp nhà nước trong
lĩnh vực kinh doanh rừng, môi trường rừng bị hạn chế cả về chất và lượng bởi nhiều
sức ép kinh tế – xã hội khác nhau.
- Trong mơi trường chính sách, thể chế: hàng loạt chính sách của Nhà nước
liên quan đến phát triển KT - XH và quản lý tài nguyên ở vùng dân tộc miền núi
vừa tạo ra những thuận lợi rất cơ bản nhưng cũng là hàng rào pháp lý hạn chế sự lựa
chọn của người bản địa xét trên góc độ hệ canh tác truyền thống của họ.
Do những thay đổi trên đây nên ngày nay hệ canh tác nương rẫy của người
dân Tây Nguyên đã có những thay đổi đáng kể, trong đó đáng chú ý là thời gian
canh tác dài hơn và thời gian bỏ hố đang có xu hướng bị rút ngắn lại, thậm chí một
số nơi khơng còn thời gian bỏ hố.
23
Trong đó ở xã K’ Dang huyện Đắk Đoa tỉnh Gia Lai cũng không ngoại lệ, đất
canh tác chủ yếu là đât dốc. Loại đất là đất đỏ bazan, đất tơi xốp dễ canh tác hàm
lượng chất dinh dưỡng cao, tầng đất dày. Người dân ở đây canh tác các loại cây như
cà phê, tiêu, cao su..., loài cây được canh tác chiếm đa số ở đây là cà phê. Vì đất ở
đây có độ phì cao nên đã thu hút người dân ở khắp nơi đến khai phá và canh tác cây
trồng, dẫn đến các phong tục tập quán canh tác của người dân ở đây cũng bị ảnh
hưởng và thay đổi, điều này sẽ được thể hiện qua các giai đoạn phát triển của cây
đồng thời các BPCS được sử dụng trong các giai đoạn đó.
Giai đoạn trồng cây: Dùng cuốc móc 1 lỗ nhỏ giữa hố sâu 25-30cm, rộng 1520cm ở chính giữa hố đã được lấp trước. Xé túi ni lon, nhẹ nhàng đặt cây vào giữa
hố, điều chỉnh cây đứng thẳng, lấp đất từ từ vừa lấp vừa dùng tay nén chặt đất, lấp
đất ngang mặt bầu.Trồng xong cần làm bồn tạo thành bờ xung quanh hố. Phải cẩn
thận tránh không làm vỡ bầu. Đặt bầu sao cho mặt bầu âm dưới mặt đất 7-10cm để
dễ đánh ổ gà, đắp bùn giữ nước cho cây.Cây trồng thẳng và ém đất quanh bầu thật
chặt, không làm vỡ bầu.Sau khi trồng cây xong phải thực hiện ngay các BPCS bảo
vệ cây: Đánh bồn, tủ gốc bằng rơm rạ, rác, cỏ thành vòng tròn, cách gốc 20cm dày
ít nhất 20cm, trên phủ nhẹ một ít đất cho rác dẹp xuống. Phun thuốc trừ sâu
Confidor 100 SL để chống mối.
=>Trong thực tế người dân chỉ cuốc hố rồi bỏ phân hóa học xuống khi thực
hiện trồng còn khơng xé túi bầu và trồng trực tiếp vào hố. Điều này có thể làm cho
rễ cây khó phát triển vì túi bầu là nilong ở dạng khó phân hủy khi trồng cả túi bầu
xuống đồng nghĩa túi bầu sẽ tồn tại trong đất gây ô nhiễm mỗi trường đất ảnh
hưởng đến cây trồng.
Khi cây bắt đầu sinh trưởng và phát triển qua một thời gian người dân sẽ tiến
hành bỏ phân cho cây đất chủ yếu đất dốc nên nguồn nước tưới hạn chế nếu đủ
nước tưới thì lại mất một khoản kinh khí rất lớn để tưới vì thế người dân đã chơng
chờ vào thời tiết. Lúc nào trời có hiện tượng sắp mưa người dân đã mang các loại
phân hóa học đi vãi thậm chí còn không đào rãnh để bỏ phân xuống và lấp. Khi đào
rãnh bỏ phân và lấp sẽ tốn công lao động, Người dân vãi và đợi trời mưa nếu trời
24
không mưa thì lượng phân sẽ bốc hơi đất cây sẽ khơng hấp thụ được và còn làm ảnh
hưởng xấu đến cây bỏ lượng phân quá nhiều sẽ làm đất chai có thể làm cho cây
chết. Nếu trời mưa thì do địa hình dốc nên lượng phân bị trơi đi là rất lớn vừa làm
mất phân và ảnh hưởng đến cây trồng.
Đa số người dân ở đây chỉ sử dụng trồng độc canh 1 lồi cây đó là cà phê.
Trong khi trồng độc canh vừa gây lãng phí đất và ảnh hưởng đến kết cấu đất vì
lượng dinh dưỡng bị lấy đi khơng được bù đắp hay khó bù đắp. Người dân trồng
cây khơng tính tốn đến kết quả sau này, họ trồng chủ yếu theo kinh nghiệm dẫn
đến lượng đất bị xói mòn lớn gây mất chất dinh dưỡng của đất làm giảm khả năng
canh tác cũng như ảnh hưởng đến năng suất của cây.
Phân hóa học là loại phân được người dân sử dụng nhiều trong việc chăm
sóc cây trồng, vì phân hóa học có tác dụng nhanh mang lại hiệu quả sớm trong khi
phân hữu cơ tác dụng chậm không thỏa mãn với nhu cầu của người dân. Trong khi
đó tác hại của việc sử dụng phân hóa học với số lượng nhiều là rất lớn. Nó gây tích
tụ các kim loại nặng và làm thối hóa đất diễn ra nhanh chóng. Vì vậy người dân
nên xử dụng phân hữa cơ thay cho phân hóa học để mang lại hiệu quả cho cây trồng
là cao nhất.
Nguồn chất thải vào mơi trường từ trồng trọt đang có xu hướng gia tăng,
trong khi việc kiểm soát chưa đạt hiệu quả. Đáng lo ngại nhất là chất thải từ phân
bón. Hiện cả nước có 26 triệu héc ta đất gieo trồng, tổng lượng phân bón sử dụng từ
10 đến 11 triệu tấn/năm. Theo tính tốn của cơ quan chức năng, hiệu suất sử dụng
phân đạm khi bón vào đất chỉ đạt 30-45%; phân lân 40-45%; kali 40-50% tùy theo
chân đất, giống cây trồng, thời vụ, phương pháp bón, loại phân bón. Từ thực tế này,
cơ quan chức năng ước tính việc sử dụng phân bón đang gây lãng phí 30.000 tỷ
đồng/năm. Đáng lo ngại hơn, một lượng không nhỏ dư lượng do không được cây
trồng hấp thu sẽ tác động tiêu cực đến hệ sinh thái nông nghiệp, làm ô nhiễm nguồn
nước, đất và có thể gây đột biến gen đối với một số cây trồng.
25
Để hạn chế tối đa lượng phân bón dư thừa trong đất do bón phân quá liều,
nhiều chun gia ngành Nơng nghiệp khuyến cáo cần bón phân cân đối, hợp lý, phù
hợp với cây trồng, đất trồng, khí hậu, kỹ thuật canh tác.
Thuốc trừ sâu là một chất hoặc hỗn hợp các chất dùng để tiêu diệt sâu bệnh.
Một loại thuốc trừ sâu có thể là một chất hóa học, tác nhân sinh học (như một virus
hoặc vi khuẩn), kháng khuẩn, khử trùng hoặc là một thiết bị dùng để chống lại bất
kỳ các loại sâu bệnh. Sâu bệnh bao gồm côn trùng, tác nhân gây bệnh, cỏ dại, động
vật thân mềm, lồi chim, động vật có vú, cá, giun tròn (giun tròn) và vi khuẩn cạnh
tranh với con người trong thực phẩm, hủy hoại tài sản, lây lan hoặc là một véc tơ
bệnh hoặc gây ra một mối phiền toái. Mặc dù sử dụng thuốc trừ sâu là có ích nhưng
cũng có nhược điểm, chẳng hạn như độc tính tiềm tàng đối với con người và các
sinh vật khác.
Thuốc diệt cỏ được sử dụng để tiêu diệt cỏ dại, đặc biệt là xung quanh hố
trồng cà phê. Chúng tương tự như auxin và hầu hết có thể phân hủy bởi vi khuẩn
trong đất. Tuy nhiên, một nhóm có nguồn gốc từ trinitrotoluene (2:4 D và T
2:04:05) có tạp chất dioxin, rất độc hại và gây chết cây ngay cả ở nồng độ thấp.
Thuốc diệt cỏ khác là Paraquat. Nó là có độc tính cao nhưng nó nhanh chóng bị
giảm nồng độ trong đất do tác động của vi khuẩn và không giết chết động vật đất.
Thuốc trừ sâu được sử dụng để đưa các trang trại thốt khỏi tình trạng sâu
bệnh phá hoại cây trồng. Các lồi cơn trùng gây hại khơng chỉ phá hoại cây chưa
thu hoạch mà còn những nơi lưu trữ và ở vùng nhiệt đới, nó được cho rằng, một
phần ba tổng sản lượng bị mất trong quá trình lưu trữ thực phẩm. Như với thuốc
diệt nấm, thuốc trừ sâu đầu tiên được sử dụng trong thế kỷ XIX là loại vô cơ
egParis xanh và các hợp chất khác của asen. Nicotine cũng đã được sử dụng từ cuối
thế kỷ XVIII.
Hiện nay có hai nhóm chính của thuốc trừ sâu tổng hợp - Organochlorines
bao gồm DDT, Aldrin, Dieldrin và BHC. Chúng có giá rẻ để sản xuất, mạnh và bền
26
vững. DDT đã được sử dụng trên quy mô lớn từ năm 1930, với đỉnh điểm là 72.000
tấn được sử dụng năm 1970. Sau đó việc sử dụng nó được giảm do các tác động có
hại của nó đến mơi trường.
Vì vậy việc sử dụng thuốc trừ sâu, phân bón hóa học,… đang là vấn đề lớn
làm các loại vi sinh vật có lượi trong đất bị chết đồng thời cũng làm cho đất bị suy
thoái rất nghiêm trọng gây ảnh hưởng rất lớn đến việc sản xuất hay canh tác các loại
cây khác sau này.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
3.2.1. Phương pháp chọn địa điểm nghiên cứu
Chọn ngẫu nhiên 1 hộ nông dân trên địa bàn của xã K’ Dang.
3.2.2. Phương pháp thu thập số liệu và thông tin
3.2.2.1. Số liệu thứ cấp
Là những tài liệu sẵn có liên quan đến cơ sở lý luận, thực tiễn của đề tài,
thông qua báo cáo luân văn, tài liệu tham khảo, các sách báo tạp chí, các kết quả
nghiên cứu trước dây,… trong các nguồn internet, chụp hình những phần có liên
quan đến đề tài.
Kết quả của hộ sản xuất qua năm 5, từ lúc cây được 1 năm tuổi cho đêsn 5 nă
tuổi, từ 2013 đến năm 2017.
3.2.2.2. Số liệu sơ cấp
Bao gồm cả số liệu thu thập được thông qua phỏng vấn hộ SXCP.
Các thông tin này được thu thập từ phỏng vấn bằng phiếu điều tra.
3.2.2.3. Phương pháp thống kê mô tả
Sử dụng số bình quân để phản ánh thực trạng phát triển kinh tế của hộ cũng
như tình hình sản xuất cà phê của xã.
27
Chương 4
NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP
4.1. Nguyên nhân
Khách quan: Địa hình dốc, mưa lớn (lượng mưa nhiều) tác động trực tiếp gây
xói mòn.
Chủ quan:
- Do nhu cầu đời sống và điều kiện tự nhiên phù hợp nên con người ở xã K’
Dang mới tập trung canh tác cà phê.
- Do khơng trồng xen cây che bóng nên làm tăng cường độ chiếu sáng, làm
cho cây ra hoa sớm gây ảnh hưởng đến năng suất cây trồng, ảnh hưởng đến công tác
công tác thu hoạch.
- Cắt cành không kịp thời và áp dụng các biện pháp kĩ thuật chưa đảm bảo.
- Sử dụng thuốc bảo vệ thực vật không đúng cách và không đúng liều lượng
cho từng đối tượng sâu bệnh có thể làm ảnh hưởng đến quần thể vi sinh vật trong
đất, gây ô nhiễm môi trường đất, tạo nên các chất độc tồn tại trong đất, gây khó
khăn cho sự phát triển cây trồng.
- Chăn thả gia súc bừa bãi.
- Sử dụng nguồn giống không rõ nguồn gốc, không đạt chất lượng.
- Do người dân thiếu kiến thức trong các kĩ thuật chăm sóc, chủ yếu chỉ vận
dụng kinh nghiệm vào sản xuất.
- Do dân số tăng, nhu cầu chỗ ở tăng, nhu cầu lương thực tăng, đất trồng bị
thu hẹp. Vì vậy, người ta phải tìm cách làm tăng năng suất cây trồng, trong đó có
28