3 Đánh giá hoạt động đẩy mạnh cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng No & PTNT quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng
Tải bản đầy đủ - 0trang
62
- CVTD góp phần nâng cao hình ảnh của chi nhánh và tăng khả năng huy
động vốn. Hoạt động CVTD có đặc điểm là số lượng khách hàng lớn, vì thế
khi hoạt động này tăng trưởng mạnh cả về số lượng và chất lượng, có nghĩa là
khách hàng ngày càng cảm thấy tin tưởng, hài lòng về hoạt động của chi
nhánh và họ sẽ ưa thích sử dụng các dịch vụ của chi nhánh hơn. Những khách
hàng này là kênh quảng cáo rất hữu hiệu hình ảnh của chi nhánh. Điều này
gián tiếp làm tăng khả năng huy động vốn và phát triển các dịch vụ ngân hàng
khác.
- Sản phẩm CVTD của chi nhánh phần nào đáp ứng được nhu cầu vay
của người tiêu dùng. Việc phát triển sản phẩm cho vay của chi nhánh dựa vào
thị trường, khi nhu cầu tiêu dùng mới xuất hiện và tiềm năng thì chi nhánh sẽ
nghiên cứu và tạo ra sản phẩm cho vay thích hợp, đáp ứng nhu cầu đó. Việc
phát triển và đa dạng hóa danh mục sản phẩm CVTD cũng góp phần nâng cao
tính cạnh tranh cũng như phân tán được rủi ro cho chi nhánh.
- Chất lượng CVTD tại chi nhánh hiện nay tương đối tốt. Nhờ việc chủ
động và linh hoạt trong cơng tác xử lí nợ xấu đã giúp nâng cao hiệu quả hoạt
động CVTD. Điều này chứng tỏ rằng vốn vay của chi nhánh phát huy được
tác dụng, có hiệu quả, được sử dụng đúng mục đích và còn cho thấy hoạt
động kinh doanh của chi nhánh phát triển, thu nhập từ hoạt động CVTD ngày
càng tăng.
- CVTD góp phần làm tăng kỹ năng nghiệp vụ của bộ phận tín dụng. Khi
thực hiện nghiệp vụ CVTD, CBTD phải tìm kiếm và tiếp xúc trực tiếp với
khách hàng nên các kỹ năng thương thuyết, thẩm định và duyệt hồ sơ là rất
quan trọng. Các hoạt động marketing cũng phải được phát triển không ngừng,
không chỉ ở bề ngồi ngân hàng mà còn trong cách ứng xử, giao tiếp của mỗi
CBTD nói riêng và của tồn bộ nhân viên ngân hàng nói chung. Do khách
hàng của CVTD là cá nhân, hộ gia đình nên khả năng am hiểu về ngân hàng
63
và các tiện ích của dịch vụ CVTD còn hạn chế, đem lại tâm lý e ngại khi đến
vay ngân hàng. Nên hơn ai hết, các CBTD của ngân hàng phải tiếp cận khách
hàng, hướng dẫn khách hàng sử dụng sản phẩm của ngân hàng mình, từ đó
giúp cho kỹ năng nghiệp vụ của các CBTD không ngừng nâng lên.
- Một số thành tựu khác: Ngoài những thành quả nêu trên, hoạt động
CVTD tại chi nhánh còn đạt được một số kết quả sau:
+ Hoạt động CVTD góp phần ổn định và cải thiện đời sống của nhân
dân địa phương, tăng sức mua của xã hội, kích thích phát triển sản xuất, kích
cầu tiêu dùng tại địa phương.
+ CVTD giúp cho một bộ phận dân cư làm quen và sử dụng các sản
phẩm dịch vụ của chi nhánh, giúp tạo cho người dân thói quen đến giao dịch
với ngân hàng.
2.3.2 Những hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1 Những hạn chế
Qua phân tích thực trạng đẩy mạnh hoạt động CVTD ta thấy dư nợ
CVTD của chi nhánh vẫn chiếm tỷ trọng khiêm tốn trong tổng hoạt động cho
vay, chưa tương xứng với tiềm năng vốn có. Khả năng đẩy mạnh CVTD còn
rất lớn tại địa bàn quận nói chung và thành phố Đà Nẵng nói riêng. Trong q
trình thực hiện CVTD thì chi nhánh còn vấp phải một số tồn tại sau mà việc
giải quyết nó có ý nghĩa quan trọng trong việc đẩy mạnh hoạt động CVTD
của chi nhánh:
- Đối tượng cho vay hạn hẹp: Chi nhánh chỉ tập trung thực hiện cho vay
các đối tượng là cá nhân, hộ gia đình và CBCNV nhà nước có thu nhập ổn
định, không cho vay đối với CBCNV doanh nghiệp và CB hưu trí. Hơn nữa,
chi nhánh chỉ thực hiện cho vay đối với những khách hàng có hộ khẩu thường
trú tại địa bàn, điều kiện ràng buộc này đã và sẽ loại trừ rất nhiều khách hàng
64
tiềm năng tốt (những người có thu nhập cao và ổn định, làm việc tại địa bàn
của chi nhánh nhưng khơng có hộ khẩu thường trú).
- Về thời hạn các khoản vay: Hiện tại chi nhánh chưa thực hiện hình thức
CVTD dài hạn và chủ yếu là CVTD ngắn hạn. Đây là một hạn chế vì các hình
thức vay phục vụ nhu cầu xây dựng mới, sửa chữa, mua nhà ở…chiếm tỷ
trọng cao trong dư nợ CVTD của chi nhánh, mà các hình thức này khách hàng
thường muốn có nguồn vốn có qui mơ vốn lớn và thời hạn sử dụng dài. Do
vậy khi một khách hàng chứng minh được thu nhập của họ cao và ổn định thì
chi nhánh cũng nên gia hạn thêm thời hạn cho vay.
- Các sản phẩm CVTD chưa có sức hấp dẫn với khách hàng. Việc tạo ra
nhiều đặc điểm nổi bật cho sản phẩm sẽ càng làm tăng tính hấp dẫn của nó đối
với người tiêu dùng, nhưng việc phát triển sản phẩm của Ngân hàng No &
PTNT quận Cẩm Lệ lại chưa thực sự hấp dẫn đối với khách hàng. Ở chi nhánh
hiện nay mặc dù đã triển khai nhiều loại sản phẩm CVTD nhưng trên thực tế
chỉ tập trung vào hai loại sản phẩm CVTD chính là xây dựng mới, sửa chữa,
mua nhà ở và mua sắm phương tiện đi lại, vật dụng gia đình, các loại hình cho
vay khác chiếm tỷ trọng rất nhỏ, gần như không đáng kể. Hạn chế này đã làm
giảm đáng kể khả năng đẩy mạnh hoạt động CVTD của chi nhánh. Chi nhánh
cần có những cải thiện về cơ cấu sản phẩm trong thời gian tới để khẳng định
ưu thế của mình trong lĩnh vực CVTD trên thị trường.
- Mức CVTD của chi nhánh dựa trên giá trị tài sản đảm bảo còn thấp, mỗi
khoản cho vay tối đa 70% giá trị tài sản đảm bảo. Số tiền này còn nhỏ so với
nhu cầu vay cả giá trị tài sản của khách hàng, do đó đã bỏ qua cơ hội cho vay
đối với nhiều khách hàng, đặc biệt là các khách hàng có khả năng trả nợ cao
trong tương lai và nhu cầu vốn lớn ở hiện tại.
- Về cơ cấu tổ chức và đội ngũ nhân sự của phòng tín dụng còn thiếu,
trình độ một số cán bộ vẫn còn bất cập thiếu tính chun nghiệp trong quản trị
65
và hoạt động của một ngân hàng hiện đại. Bộ phận tín dụng của chi nhánh
hiện nay quá ít để phát triển và đẩy mạnh cho vay một cách hiệu quả.
- Cơng nghệ Ngân hàng mặc dù có nhiều tiến bộ nhưng vẫn chưa đuổi
kịp tốc độ phát triển chung của xã hội. Trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật chưa
đồng đều, cơ sở cơng nghệ vi tính tuy đầu tư nhiều nhưng chưa sử dụng triệt
để công suất của máy, quản lý khai thác dữ liệu qua mạng và lập trình ứng
dụng cho chương trình chưa ổn định.
- Hoạt động marketing trong CVTD chưa đáp ứng được yêu cầu phát
triển. Hoạt động marketing đã trở nên thiết yếu đối với mọi loại hình ngân
hàng trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Nó giúp các ngân hàng tìm kiếm
được nguồn khách hàng, mở rộng hoạt động và nâng cao khả năng cạnh tranh.
Nhưng một thực tế là tại NH No & PTNT quận Cẩm Lệ, tuy CVTD là một
hoạt động đang được đầu tư phát triển nhưng hoạt động marketing trong lĩnh
vực này lại chưa được quan tâm tương xứng, không đáp ứng được yêu cầu đặt
ra. Hoạt động marketing của chi nhánh chưa được chuyên nghiệp hóa, chưa
có bộ phận chuyên trách thực hiện các chiến lược marketing, cộng với hoạt
động marketing trong lĩnh vực này còn yếu. Đây là nguyên nhân chính khiến
cho lượng khách hàng mới sử dụng sản phẩm CVTD của chi nhánh vẫn chưa
nhiều, đồng thời lượng khách hàng cũ thì khơng ổn định do chi nhánh chưa có
chính sách giữ khách hàng. Điều này làm cho dư nợ CVTD vẫn chưa cao như
ta đã phân tích.
Mặc dù còn nhiều tồn tại, song với ý chí quyết tâm cao của tồn thể
CBCNV Ngân hàng No & PTNT quận Cẩm Lệ cố gắng khắc phục những yếu
kém nói trên, tiếp tục nâng cao năng lực phục vụ, góp phần vào tiến trình đổi
mới và phát triển của Ngân hàng No & PTNT thành phố Đà Nẵng.
2.3.2.2 Nguyên nhân
66
Trong những nguyên nhân khiến hoạt động CVTD của Ngân hàng No &
PTNT quận Cẩm Lệ còn hạn chế có cả những nguyên nhân khách quan từ bên
ngoài và nguyên nhân từ bản thân ngân hàng.
Nguyên nhân khách quan
- Thứ nhất: Môi trường kinh tế chưa thật sự ổn định. Sự bất ổn của nền
kinh tế thế giới đã ảnh hưởng không nhỏ tới nền kinh tế Việt Nam. Suy thoái
kinh tế và lạm phát liên tục tăng cao làm cho chi phí đầu vào tăng nên lãi suất
cho vay đầu ra tăng, ảnh hưởng trực tiếp tới việc phát triển tín dụng của ngân
hàng, đặc biệt là CVTD. Mặc dù trong những năm gần đây, sau cuộc khủng
hoảng, nền kinh tế nước ta có sự tăng trưởng cao nhưng còn tiềm ẩn nhiều bất
ổn (giá vàng và USD diễn biến bất thường, thị trường bất động sản nằm ngoài
tầm quản lý dẫn đến hiện tượng đầu cơ, chỉ số giá tiêu dùng tăng cao,...).
Chính những yếu tố đó đã làm cho thu nhập của một bộ phận dân cư giảm
xuống, cầu tiêu dùng do đó cũng giảm theo.
- Thứ hai: Hoạt động CVTD mới chỉ xuất hiện ở Việt Nam từ năm 1993
và chỉ thực sự phát triển từ năm 2002. Do đó, điều kiện pháp lý cho sự tồn tại
và phát triển của nghiệp vụ này còn chung chung và chưa rõ ràng. Hiện nay
vẫn chưa có một văn bản quy phạm pháp luật mang tính thống nhất cụ thể
hướng dẫn thực hiện nghiệp vụ này. Như chúng ta đã biết bất kỳ hoạt động
kinh doanh nào trong nền kinh tế đều phải chịu sự điều chỉnh của luật pháp.
Các quy định điều chỉnh việc cung cấp dịch vụ CVTD hiện nay do nhiều cấp
ban hành, bao gồm các nghị định của Chính phủ, quyết định, thông tư hướng
dẫn của NHNN và các quy định, quy trình nghiệp vụ của các NHTM. Nhìn
chung, cơ sở pháp luật về CVTD còn thiếu nhiều quy định cần thiết, các quy
định thiếu cụ thể và khơng thích hợp. Các chính sách, luật lệ của NHNN cũng
gây hạn chế đáng kể cho sự phát triển của hoạt động CVTD. Các quy định
thiên về thủ tục, giấy tờ khiến cho các ngân hàng dù muốn vẫn khó lòng đơn
67
giản các quy trình, thủ tục cho khách hàng. Để ra một sản phẩm mới, các ngân
hàng cũng phải trải qua rất nhiều bước nhiều khâu xin phép, trình duyệt,…
Điều đó khiến các NHTM khơng n tâm đầu tư phát triển nó một cách mạnh
mẽ vì lo sợ sự thay đổi của cơ chế chính sách. Một yêu cầu cấp thiết đặt ra
hiện nay là cần có một cơ chế đơn giản, gọn nhẹ hơn, thống nhất đồng bộ và
dễ hiểu, đảm bảo lợi ích của khách hàng. Điều này đòi hỏi phải sớm điều
chỉnh, tiến tới hình thành mơi trường pháp lý đầy đủ, đồng bộ và thống nhất
giữa các loại hình dịch vụ.
- Thứ ba: Có thể thấy rõ, CVTD là một hình thức khá mới mẻ đối với thị
trường tài chính Việt Nam. Tình trạng quy mơ hoạt động CVTD còn thấp, khả
năng mở rộng các nghiệp vụ cung ứng là khó khăn, dẫn đến hạn chế trong hoạt
động CVTD còn có một ngun nhân chính bắt nguồn từ thói quen và tâm lý
của người Việt Nam. Họ chưa quen với việc đi vay để tiêu dùng, vì họ thường
chỉ chi tiêu trên số tiền kiếm ra chứ không mạo hiểm đi vay để tiêu rồi “ngồi
trên đống nợ”. Nhiều người khi có nhu cầu mua sắm, sửa chữa nhà cửa hay
tiêu dùng khác đều không nghĩ đến việc tìm đến ngân hàng để tài trợ cho nhu
cầu của mình. Đơn giản vì họ khơng thích vay ngân hàng hay ngại tiếp xúc với
nguồn vốn của ngân hàng vì cho rằng nó phức tạp, đồng thời họ có tâm lý e
ngại trong việc công khai thu nhập với ngân hàng, ngại rủi ro khi giao dịch tiền
bạc và phiền phức thủ tục. Nguồn tài chính chủ yếu để xây dựng nhà ở, mua
sắm tài sản chủ yếu là các nguồn khơng chính thức bao gồm các khoản tiền gửi
tiết kiệm, vay từ người thân trong gia đình và bạn bè. Chính điều này đã gây
khó khăn cho ngân hàng trong việc tìm kiếm nguồn khách hàng và mở rộng thị
trường. Như vậy, để đẩy mạnh hoạt động CVTD, các NHTM nói chung và
Ngân hàng No & PTNT quận Cẩm Lệ nói riêng phải tìm ra được biện pháp
xóa bỏ rào cản tâm lý ấy.
68
- Thứ tư: Sự cạnh tranh của các NHTM và các các tổ chức tín dụng khác
trên địa bàn ngày càng gay gắt. Do ảnh hưởng của suy thối kinh tế tồn cầu,
các NHTM đã thắt chặt tín dụng cho vay năm 2008, đặc biệt là cho vay đầu tư
bất động sản. Tuy nhiên với tình hình kinh tế rất khả quan sau năm 2009 thì thị
trường CVTD năm 2010 hết sức sơi động với gói hỗ trợ lãi suất của Chính
phủ. Mặt khác, địa bàn Đà Nẵng là khu vực đầy tiềm năng phát triển nên sự
cạnh tranh quyết liệt giữa các NHTM là điều không thể tránh khỏi. Hơn nữa,
một định hướng chung được các NHTM đặt ra là phát triển thành ngân hàng đa
năng, trong đó tập trung vào hoạt động ngân hàng bán lẻ. Mở rộng hoạt động
CVTD vì thế đang là cái đích mà nhiều ngân hàng nhắm tới. Các ngân hàng
cạnh tranh nhau bằng cách đưa ra các chính sách linh hoạt về lãi suất, sản
phẩm đa dạng,...Đặc biệt, có nhiều NHTM rất chú trọng đối với mở rộng
CVTD với nhiều sản phẩm đa dạng phục vụ cho người tiêu dùng vì vậy ảnh
hưởng rất lớn đến doanh số CVTD của chi nhánh trên địa bàn.
Nguyên nhân chủ quan
Bên cạnh những nguyên nhân khách quan, hoạt động CVTD của Ngân
hàng No & PTNT quận Cẩm Lệ còn có những hạn chế xuất phát từ những
nguyên nhân nội tại, bao gồm:
- Ngân hàng No & PTNT quận Cẩm Lệ với lợi thế rất lớn trong việc cung
cấp dịch vụ bán buôn, nên đã tận dụng khá tốt lợi thế này. Từ đó tất yếu hình
thành tác phong coi trọng bán bn và xem thường bán lẻ. Sự chuyển biến về
tư duy và chiến lược kinh doanh mới thực hiện gần đây, tuy nhiên sự chuyển
biến đó chưa mang tính hệ thống, nói cách khác chưa thấm nhuần trong nhận
thức của tồn thể nhân viên chi nhánh. Đối với đại đa số nhân viên, đặc biệt là
những nhân viên lâu năm họ chỉ quan tâm phục vụ nhóm khách hàng là tập
đồn lớn, các tổng công ty và thường xem nhẹ khách hàng cá nhân. Thực tế tại
chi nhánh lâu nay hầu như là bán buôn chủ yếu nên việc cho vay bán lẻ chỉ
69
mới bắt đầu, sự chú trọng chưa cao, kinh nghiệm trong lĩnh vực này chưa
nhiều, bên cạnh đó cơ chế quản lý của NHTM nhà nước còn nặng nề, chưa có
sự linh hoạt. Cho nên mặc dù vài năm trở lại đây CVTD tại chi nhánh đã được
sự quan tâm của Ban lãnh đạo, nhưng vẫn định hướng chủ yếu theo hoạt động
thế mạnh của chi nhánh là các doanh nghiệp, còn đối với nhu cầu tín dụng của
cá nhân và hộ gia đình thì chưa thực sự được chú trọng. Những cuộc điều tra,
khảo sát về nhu cầu tín dụng của người dân trên địa bàn còn ít, chưa được thực
hiện một cách chu đáo.
- Về cơ cấu tổ chức và đội ngũ nhân sự của phòng tín dụng còn thiếu. Bộ
phận tín dụng của Ngân hàng No & PTNT quận Cẩm Lệ hiện nay bao gồm 1
trưởng phòng, 1 phó phòng tín dụng và 4 CBTD, tại ba phòng giao dịch Hòa
Phát, Khuê Trung và Hòa An chỉ có 3 CBTD. Như vậy, số lượng CBTD q ít
cho mảng tín dụng nói chung và hoạt động CVTD nói riêng. Nếu muốn mở
rộng hoạt động này, việc tăng thêm số lượng nhân sự cho mảng tín dụng cá
nhân là yêu cầu cấp thiết. Hơn nữa, mạng lưới phòng giao dịch của chi nhánh
còn mỏng, phân bố khơng đều, chủ yếu tập trung ở địa bàn. Điều này làm hạn
chế khả năng tiếp cận với nguồn khách hàng ở các quận huyện khác trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng.
- Công tác marketing, thông tin tuyên truyền, quảng bá hình ảnh, thương
hiệu chi nhánh còn yếu, thiếu chun nghiệp, tỉ lệ khách hàng cá nhân tiếp
cận và sử dụng sản phẩm CVTD của chi nhánh còn hạn chế. Mặc dù chi
nhánh đã có định hướng phát triển hoạt động ngân hàng bán lẻ, nhưng chưa
có được sự đầu tư thoả đáng cho hoạt động tiếp thị và quảng cáo cho các dịch
vụ mới. Những kênh thông tin này thực sự chưa gần gũi đối với khách hàng,
đặc biệt là các khách hàng cá nhân ở xa khu vực trung tâm hoặc khơng có
điều kiện tiếp cận. Các hoạt động quảng bá khác như quảng cáo trên truyền
hình, thơng qua tờ rơi, các chiến dịch quảng cáo… hầu như chưa được khai
70
thác. Điều này làm hạn chế sự mở rộng về quy mô khách hàng của chi nhánh.
Hoạt động marketing của bộ phận tín dụng chỉ do CBTD đảm trách, song
song với theo dõi quản lý hồ sơ cho vay họ còn phải tiếp thị mở rộng thị
trường.
Kết luận chương 2
Qua nghiên cứu, tìm hiểu thực tế về cơng tác đẩy mạnh cho vay tiêu
dùng tại Ngân hàng No & PTNT quận Cẩm Lệ trong 3 năm 2009 – 2011, tôi
nhận thấy chi nhánh đã đạt được các kết quả khả quan. Mặc dù trong bối cảnh
nền kinh tế không ổn định nhưng dư nợ và lợi nhuận từ hoạt động cho vay
tiêu dùng vẫn tăng trưởng qua các năm, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
71
động kinh doanh tại chi nhánh. Đây là một nỗ lực rất đáng ghi nhận của tồn
thể CBCNV chi nhánh.
Tuy nhiên, tơi cũng phát hiện ra những điểm còn tồn tại trong hoạt động
cho vay tiêu dùng tại chi nhánh mà xuất phát từ cả những nguyên nhân chủ
quan lẫn khách quan. Vì thế, chi nhánh cần tiếp tục cố gắng phát huy các ưu
điểm đã có cũng như khắc phục các hạn chế trong thời gian đến để hoạt động
cho vay tiêu dùng đạt hiệu quả cao hơn.
Chương 3
GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG
TẠI NH No & PTNT QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
3.1. Định hướng đẩy mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng No
& PTNT quận Cẩm Lệ trong thời gian tới
72
3.1.1 Định hướng chung cho chiến lược phát triển của Ngân hàng No &
PTNT quận Cẩm Lệ
Kể từ khi nước ta bắt đầu hội nhập vào nền kinh tế thế giới cho đến nay,
mục tiêu phát triển của Ngân hàng No & PTNT quận Cẩm Lệ vẫn là kiên định
với chiến lược trở thành “Ngân hàng bán lẻ hàng đầu Việt Nam”, chú trọng
tập trung vào tiếp thị và phục vụ các đối tượng khách hàng là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ và các khách hàng cá nhân thuộc tầng lớp trung lưu. Để
hồn thành và duy trì mục tiêu đó, chi nhánh đã không ngừng phấn đấu và
đưa ra những định hướng phát triển mới cho chính mình.
Mục tiêu tổng qt của chi nhánh định hướng trong năm 2012 là “ Bám
sát mục tiêu của toàn ngành, thực hiện thật tốt những nội dung cơ bản của
Ngân hàng No & PTNT Việt Nam. Tiếp tục duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý,
đảm bảo cân đối, an toàn khả năng sinh lời, nâng cao chất lượng dịch vụ ngân
hàng, tập trung đầu tư vào đào tạo nguồn nhân lực, đầu tư đổi mới cơng nghệ
ngân hàng phù hợp với hiện đại hóa, đủ năng lực hội nhập. Nâng cao năng lực
tài chính và phát triển thương hiệu trên cơ sở đẩy mạnh và kết hợp với văn
hóa doanh nghiệp”.
Ngân hàng No & PTNT quận Cẩm Lệ cũng sẽ chú trọng vào phát triển
mạng lưới hoạt động của mình hình thành một hệ thống rộng khắp trên những
địa bàn lân cận nhằm đưa các sản phẩm dịch vụ của chi nhánh đến với công
chúng rộng rãi hơn. Tuy nhiên, hoạt động này cũng được chi nhánh cân nhắc
cẩn trọng và chỉ tập trung mở rộng chi nhánh, phòng giao dịch tại các địa
phương có kinh tế phát triển, đầu mối giao thơng quan trọng. Bên cạnh đó,
việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực luôn được chi nhánh coi như một
công tác trọng yếu. Các chương trình tuyển dụng và đào tạo ln hướng tới
mục tiêu hình thành một đội ngũ nhân viên có đầy đủ kiến thức và năng lực
để tiếp cận công nghệ mới trong lĩnh vực ngân hàng.